Thứ Năm, 9 tháng 12, 2010

Dấu hiệu dây thắt (Test du lacet) trong bệnh Sốt xuất huyết

Hiện nay, rất nhiều người hiểu nhầm dấu hiệu dây thắt (Lacet dương tính - Lacet theo tiếng Pháp là dây thắt) là dấu hiệu đặc trưng để chẩn đoán Sốt xuất huyết. Dấu hiệu dây thắt được định nghĩa trên wikipedia như sau:
   "Le test du lacet, ou signe du lacet, est un examen permettant une évaluation de la résistance ou de la fragilité des vaisseaux capillaires sanguins."

Như vậy, dấu hiệu dây thắt (nghiệm pháp dây thắt) thực chất là một nghiệm pháp kiểm tra, đánh giá sức bền thành mạch mà chủ yếu là thành mao mạch.

- Nguyên lý: cản trở tuần hoàn về tim để làm tăng áp lực trong lòng tĩnh mạch, qua đó làm tăng áp lực mao mạch; sau đó giảm áp lực một cách đột ngột. Nếu thành mạch kém bền vững thì Hồng cầu sẽ bị đẩy ra khỏi thành mạch gây nên xuất huyết dưới da với hình thái những chấm xuất huyết nhỏ.

- Phương pháp tiến hành: dùng máy đo huyết áp (huyết áp kế), quấn bao đo trên cánh tay, bơm hơi lên để đo chỉ số huyết áp. Duy trì với áp lực trung bình (huyết áp tối đa + huyết áp tối thiểu chia đôi) trong 10 phút sau đó tháo hơi nhanh và bỏ máy đo huyết áp ra. Thời gian duy trì tối thiểu phải đạt 5-7 phút, nhưng đúng tiêu chuẩn phải đúng 10 phút.

- Đánh giá kết quả: quan sát mặt trước cánh tay và cẳng tay phần dưới dây thắt, đếm số lượng nốt (chấm) xuất huyết trên 1cm2. Tùy số lượng các nốt xuất huyết (và cả thời gian xuất hiện cũng như vị trí nốt xuất huyết) mà người ta đánh giá
   + 5-9 nốt/1cm2: nghi ngờ / dương tính (+)
   + 10-19 nốt/1cm2: dương tính (++)
   + > 19 nốt/1cm2: dương tính (+++).

- Đặc điểm của nốt xuất huyết: thường có đường kính khoảng một vài milimet, có thể to hơn nhưng đường kính không quá 1cm, màu đỏ, phẳng với mặt da, ấn phiến kính hoặc căng da không mất và biến mất trong 2-5 ngày.

- Cơ chế gây rối loạn đông máu của Sốt xuất huyết:
   + Tăng tính thấm và tổn thương thành mạch.
   + Tiểu cầu giảm.
   + Các yếu tố đông máu giảm do bị tiêu thụ vào quá trình tăng đông.

- Ý nghĩa: Dấu hiệu dây thắt là một dấu hiệu dùng để đánh giá sức bền thành mao mạch. Trong sốt xuất huyết người ta dùng để phát hiện sớm dấu hiệu xuất huyết.

- Những trường hợp có dấu hiệu dây thắt dương tính:
   + Bệnh nhân có sốt: Do các bệnh nhiễm khuẩn như nhiễm khuẩn huyết do não mô, bệnh bạch hầu, thường hàn, bệnh sởi, sốt xuất huyết...
   + Bệnh nhân không có sốt: Các bệnh gây xuất huyết khác
      . Do thiếu vitamin C, PP.
      . Do bệnh miễn dịch, dị ứng, ví dụ: viêm thành mạch dị ứng.
      . Một số bệnh nội khoa như: lao, đái tháo đường, xơ gan, suy thận...
      . Các bệnh do thiếu hụt các yếu tố đông máu của huyết tương, ví dụ: hemophilie A, B, C, ...giảm prothrombin, proconvertin...
      . Bệnh tiểu cầu: giảm tiểu cầu nguyên phát, suy nhược tiểu cầu (Glanzmann).
      . Do xuất hiện hội chứng đông máu rải rác trong lòng mạch (do nhiều nguyên nhân khác nhau).
      . Còn gặp trong ngoại khoa, sản khoa, chuyên khoa khác.

Chẩn đoán Sốt xuất huyết Dengue:
Khi bệnh nhân có đồng thời 2 dấu hiệu giảm tiểu cầu và cô đặc máu thì được chẩn đoán là SXH Dengue và được phân loại theo WHO:
   - Độ I: Sốt + không có xuất huyết tự nhiên, chỉ có dấu hiệu dây thắt (Lacet) (+), có thể tiểu cầu giảm và hematocrit tăng
   - Độ II: Sốt + xuất huyết tự nhiên (dưới da, niêm mạc, phủ tạng đơn thuần hoặc kết hợp), tiểu cầu giảm, hematocrit tăng
   - Độ III: giảm tiểu cầu và hematocrit tăng, huyết động không ổn định: mạch lăn tăn, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tâm thu - huyết áp tâm trương dưới 20mmHg), tay chân lạnh, tinh thần lú lẫn.
   - Độ IV: giảm tiểu cầu và hematocrit tăng, sốc biểu hiện rõ: bệnh nhân không có mạch ngoại biên, huyết áp = 0mmHg.

10 nhận xét:

  1. Cám ơn bài viết thật hữu ích!

    Trả lờiXóa
  2. bài viết khá xúc tích,thanks

    Trả lờiXóa
  3. Bài viết này chỉ có tính tham khảo về dấu dây thắt. Phân độ SXH hiện nay đã thay đổi. Người ta không còn phân thành 4 độ (I, II, III, IV) mà phân thành 3 mức độ: Sốt xuất huyết Dengue, Sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo, Sốt xuất huyết Dengue nặng.

    Cách phân chia thành 3 mức độ nhằm khắc phục được hạn chế của cách phân độ cũ, dễ bỏ sót nhiều trường hợp nặng, giúp Bác sĩ xử trí đúng và phù hợp hơn.

    Trả lờiXóa
  4. độ IV: huyết áp bằng 0mmHg thì coi như ngừng tuần hoàn và chết rồi nên cần gì phải chia độ nữa

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Mạch không bắt được, huyết áp không đo được thì chưa phải là chết bạn à. Khi đó có thể hệ tuần hoàn ngừng hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả. Hồi sức tim phổi (CPR) có thể làm tim và tuần hoàn hoạt động trở lại nhưng thường là không có tổn thương não kéo dài. Ở trạng thái chết lâm sàng thì tim ngừng đập và não không hoạt động.
      Bạn có thể tham khảo thêm tại https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%BFt

      Xóa
  5. bài viết rất hữu ích, cảm ơn tác giả!

    Trả lờiXóa
  6. nếu dùng máy đo huyết áp điện tử có thực hiện được nghiệm pháp dây thắt không ạ? e xin cảm ơn

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Khi bơm đã đạt huyết áp trung bình, bạn phải giữ huyết áp đó trong 10 phút. Với máy HA điện tử, bạn phải dùng một dụng cụ kẹp ống xả hơi lại để bảo đảm duy trì được liên tục áp lực này.

      Xóa

Translate

Bài đăng Phổ biến